Chuyển đến nội dung chính

TÂM LÀ GÌ

 



TÂM LÀ GÌ

Một câu hỏi ngắn, nhưng lời giải lại nặng pháp học. Dù nhiều vị tự diễn giải theo ý riêng, tâm đã được kinh tạng mô tả đầy đủ. Kể cả “hành” hay “thức” trong ngũ uẩn, những khái niệm mà người mới học Phật pháp đều mơ hồ. Trong bài viết này, tôi sẽ cố gắng mô tả “tâm là gì” theo giáo lý Nguyên Thủy, như là một bản đồ nhỏ cho hành giả mới bắt đầu tìm hiểu Phật Pháp.

Tâm là toàn bộ tiến trình nhận biết, cảm xúc, tư duy, và phản ứng với các cảnh. Kể đủ có 14 loại tâm nếu phân theo chức năng.  Chúng sinh khác nhau ở “cách” tâm nhận biết, diễn giải và phản ứng – yếu tố chịu ảnh hưởng bởi nghiệp và mức độ tu tập.

Tâm không phải là một “thực thể” thường hằng, mà là dòng các sát-na tâm sinh diệt nối tiếp theo duyên, mỗi sát-na chỉ tồn tại khoảng một phần triệu giây.

Giống điện thoại tưởng như “chạy” nhiều ứng dụng cùng lúc, nhưng thực tế CPU chỉ xử lý một tác vụ tại một thời điểm. Tâm cũng vậy, một sát-na chỉ có một tâm sinh khởi, nhưng chúng liên tục rất nhanh và xen kẽ nhau. Nhờ đó, có cảm giác ta vừa thấy hình ảnh, vừa nghe âm thanh, vừa suy nghĩ. Và vừa có cảm giác như ‘biết’ chính mình đang biết.

Khi nói “một tâm khởi”, là cách nói tắt cho việc một “sự kiện”, “một cảnh” từ một trong sáu căn, đã tác động vào dòng tâm, cắt dòng hữu phần và làm sinh khởi dòng tâm theo sự kiện đó. Trong sáu căn, có một căn đặc biệt là ý căn. Ý căn tiếp xúc với pháp trần – là các đối tượng nội tâm như ký ức, suy nghĩ, tưởng tượng, khái niệm trừu tượng, hay ấn tượng còn sót lại từ các tâm trước. Nhờ đó, sát-na tâm sau có thể nhận biết ấn tượng để lại từ sát-na tâm trước. Chính cơ chế này là lý do có hiện tượng ghi nhớ, tự biết, và cảm giác liên tục trong tri giác. Cũng là lý do khiến nhiều vị lầm tưởng có một “cái biết” thường hằng, độc lập với tâm.

TÂM VÀ TÂM SỞ

Trong năm uẩn, bốn uẩn: thọ, tưởng, hành thuộc về tiến trình tâm: trong đó thức là tâm (citta), còn thọ, tưởng và hành là các tâm sở (cetasika).

Có 52 tâm sở, trong đó: thọ uẩn là 1 tâm sở, tưởng uẩn là 1 tâm sở, hành uẩn là 50 tâm sở còn lại.

Có thể hình dung như sau: bạn có một rổ chứa 52 viên bi (tâm sở). Mỗi lần “chọn 1 nhóm viên bi”, bạn đang hình thành một (sát-na) tâm. Mỗi sát-na tâm có một tổ hợp các tâm sở được gọi lên cùng lúc. Dù có 52 tâm sở, nhưng mỗi sát-na tâm chỉ đi kèm một tổ hợp tâm sở nhất định, phù hợp với loại tâm ấy, và chỉ có 89 trường hợp khác nhau của tâm mà thôi. Cần lưu ý, tâm (thức) là một pháp chân đế, không chỉ là khái niệm tổng hợp. Một sát-na tâm gồm một tâm (thức), một tổ hợp các tâm sở, có đối tượng cụ thể, và đảm trách chức năng cụ thể trong tiến trình tâm. Cũng nói thêm, 79 loại tâm ngoài 10 ngũ song thức (5 giác quan) là các tâm thuộc ý môn – gọi chung là ý thức.

Với mỗi người, mỗi tâm sở có “tần suất” đồng sinh khởi khác nhau, và sức mạnh của chúng cũng khác nhau. Ở phàm phu, tỉ lệ xuất hiện của các tâm sở bất thiện như tham, sân, si chiếm phần lớn. Mỗi lần chúng sinh khởi mà không bị ngăn chặn, chúng tạo thành hành vi tâm lý lặp lại. Dần dần chúng trở nên mạnh hơn, thuần thục hơn – gọi là tập khí hay nghiệp lực.  

Việc tu tập cũng chính là chuyển hóa trực tiếp trên những tâm sở này, đặc biệt là các tâm sở có khả năng tạo nghiệp. Tu tập là quá trình làm suy yếu các tâm sở bất thiện; tăng trưởng và củng cố các tâm sở thiện. Từ đó, các tâm có tâm sở bất thiện sẽ khởi lên ít hơn và yếu hơn. Ngược lại, các tâm có tâm sở thiện xuất hiện thường xuyên hơn và mạnh hơn.

Mục tiêu sau cùng là đoạn tận các tâm sở tạo nghiệp dẫn đến tái sinh. Khi một tâm sở như tham bị đoạn tận, thì toàn bộ các tâm có tâm sở tham không còn điều kiện sinh khởi nữa – đó chính là đoạn trừ loại tâm ấy khỏi tiến trình tâm.

Trong 12 nhân duyên, mắc xích đầu tiên là : vô minh duyên hành – hành duyên thức. “Hành” trong 12 duyên là tập hợp các tâm hành tạo nghiệp – tức các tâm sở đồng sinh với tư (cetana) và là nhân dẫn đến tái sinh. Chính “hành” đó là duyên sinh ra “thức tái sinh” ở một đời sống mới. Do đó, mắc xích “Hành duyên Thức” nghĩa là: các tâm hành tạo nghiệp trong kiếp trước là nguyên nhân làm khởi sinh thức tái sinh trong kiếp này. Chỉ một phần các tâm hành – cụ thể là các tâm hành tạo nghiệp – mới trở thành nhân duyên dẫn đến tái sinh.

Khi mọi tâm hành tạo nghiệp này đoạn trừ, không còn điều kiện cho thức tái sinh khởi lên, dòng luân hồi chấm dứt.

CHÂN TÂM

Cần hiểu rằng, khi bạn cảm thấy tâm trong sáng, vắng lặng hay cân bằng—không phải là vì “tâm dừng lại” hay có một “chân tâm” nào đó hiện ra—mà do trong sát-na tâm đó, các tâm sở bất thiện vắng mặt, và các tâm sở thiện đang hiện diện. Dòng sát-na tâm không bao giờ ngừng, kể cả trong trạng thái an tịnh nhất. Nó chỉ chuyển đổi qua các dạng tâm khác nhau theo duyên. Ngay cả trong giấc ngủ sâu không mộng mị vẫn tồn tại một ‘tâm nền’ duy trì gọi là ‘tâm hữu phần’.

Như vậy, tìm “chân tâm” hay “Phật tánh” hay “tánh biết” nằm ngoài tiến trình tâm sinh diệt này là vọng tưởng.  “Chân tâm” ấy chưa từng tồn tại và không có trong giáo lý Nguyên Thủy. Cuối cùng, không thể “ngộ” tức thì bằng cách “trực chỉ” nếu vẫn còn tham, sân, si. Theo giáo lý, A-la-hán phải đoạn tận tham và sân, như cây tala bị chặt đầu – không còn khả năng sinh khởi trở lại. Tu tập chính là quá trình chuyển hóa từng sát-na tâm, từng tâm sở trong dòng tâm sinh diệt. Giải thoát chỉ đạt được khi vô minh diệt, các tâm hành tạo nghiệp bị đoạn trừ, và tiến trình tái sinh không còn cơ sở để khởi lên.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Ý NGHĨA CUỘC SỐNG

Từ xưa đến nay, con người luôn tìm kiếm ý nghĩa cho sự tồn tại của mình. Câu hỏi "Ta sống để làm gì?" hay "Mục đích của đời người là gì?" đã được đặt ra dưới vô số hình thức, từ tôn giáo, triết học đến khoa học. Có người nói sống là để yêu thương, để học hỏi, để phát triển bản thân, để tiến hóa tâm thức hay để lại dấu ấn nào đó trong cuộc đời. Nhưng trong tất cả những câu trả lời đó, dường như hiếm ai thấy rằng: "Cuộc đời này vốn vô nghĩa." Tại sao con người lại sợ hãi ý niệm về một cuộc đời không có ý nghĩa sẵn có? Bởi vì nếu đời sống thật sự không mang một giá trị hay mục đích cố hữu, thì những điều con người theo đuổi—tiền bạc, danh vọng, tình yêu, tri thức—sẽ chỉ là những giá trị được áp đặt một cách chủ quan. Con người gán ý nghĩa cho cuộc đời để cảm thấy an toàn, có động lực bước tiếp hoặc để né tránh sự trống rỗng mà ý niệm 'vô nghĩa' mang lại. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, chính sự không có ý nghĩa cố định lại mang đến một sự tự do tuyệt đối. Khi...

TRUNG ĐẠO : TÁI SINH KHÔNG CẦN LINH HỒN

  TRUNG ĐẠO LÀ GÌ Khi nhắc đến đạo Phật chúng ta thường nghe khái niệm “Trung Đạo”, nhưng chúng ta có thật sự hiểu rõ khái niệm này đúng theo tinh thần của đạo Phật Nguyên Thủy, Trung Đạo trong đạo Phật có phải chỉ là lối tu tập tránh xa hai cực đoan khổ hạnh và hưởng thụ dục lạc? Liệu chúng ta có đang hiểu đúng tinh thần Trung Đạo của Đạo Phật Nguyên Thủy hay chỉ dừng lại ở ý niệm đơn giản? Hãy cùng bàn luận ! Theo cách hiểu phổ biến, Trung Đạo là lối tu tập tránh khỏi hai cực đoan là khổ hạnh ép xác và hưởng thụ dục lạc. Tuy nhiên trong Phật Giáo Nguyên Thủy, trung đạo có một cách hiểu khác sâu sắc hơn, đó là Tri Kiến vượt khỏi cực đoan của Thường Kiến và Đoạn Kiến. Vì Chánh Tri Kiến là đi đầu và quan trọng nhất trong Bát Chánh Đạo, nếu không có Chánh Tri Kiến chúng ta sẽ bị lạc đường. Thường kiến là niềm tin rằng có một linh hồn thường còn bất biến, tồn tại mãi mãi sau khi chết, hoặc tin rằng có một đấng tạo hóa vĩnh cữu sinh ra muôn loài. Còn đoạn kiến là quan niệm rằng...

NHÂN QUẢ VÀ NHỮNG HIỂU LẦM

Nhân quả là một quy luật tự nhiên của vũ trụ, không do Đức Phật tạo ra mà chỉ do Ngài khám phá và giảng dạy. Quy luật này hoạt động vô tri, không biết thông cảm hay xem xét hoàn cảnh cá nhân. Bất kể ai, dù là vua hay kẻ cùng khố, cũng nhận kết quả tương ứng với nhân đã gieo. NHÂN QUẢ CÓ TÍNH LINH HOẠT HAY BÙ TRỪ ? Nhiều người tin rằng nếu làm một việc thiện, nó có thể bù trừ cho việc ác đã làm. Trên thực tế, mỗi nhân gieo sẽ tạo ra quả của chính nó, không có sự hoá giải bằng cách "bù trừ" hay triệt tiêu lẫn nhau. Ví dụ: Một người kiếm tiền bằng cách bất chính rồi dùng tiền đó đi bố thí. Hai hành động này độc lập và tạo ra hai loại quả khác nhau. Tuy nhiên một quả lành đã trổ có thể làm giảm nhẹ hoặc tạm thời trì hoãn quả xấu, nhưng đó không có nghĩa là bù trừ. NHÂN QUẢ CÓ XEM XÉT HOÀN CẢNH ? Nhiều người nghĩ rằng hoàn cảnh đặc biệt có thể khiến nhân quả trở nên linh hoạt (thông cảm). Tuy nhiên, quy luật này chỉ hoạt động dựa trên hành động, lời nói, và tâm ý. Ví dụ 1: Một ngư...